Năm 2018: HĐLĐ từ đủ 01 tháng trở lên phải đóng BHXH bắt buộc

Đỗ Trọng Hiền 0909164167 - 0917303340 - hienchiefac@nghiepvuketoan.vn

Đỗ Trọng Hiền 0909164167 - 0917303340 - hienchiefac@nghiepvuketoan.vn

Theo đó, kể từ ngày 01/01/2018, người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng cũng phải tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc (hiện nay, đối tượng này không phải tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc).

Đây là nội dung mới đáng chú ý tại Khoản 1 Điều 121 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014
>> 10 khoản thu nhập tính đóng BHXH bắt buộc từ ngày 01/01/2018 
>> Cấp mã số BHXH mới: Người dân được lợi gì?

Theo đó, kể từ ngày 01/01/2018, người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng cũng phải tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc (hiện nay, đối tượng này không phải tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc).

Bảo hiểm xã hội

Cũng từ ngày này, phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Chính phủ.

Điều 2. Đối tượng áp dụng

1. Người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bao gồm:

b) Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng;

2. Người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Chính phủ.

Điều 124. Hiệu lực thi hành

1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2016, trừ quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 2 của Luật này thì có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018.

Thanh Hữu
https://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phap-luat/chinh-sach-moi/17757/nam-2018-hdld-tu-du-01-thang-tro-len-phai-dong-bhxh-bat-buoc


Tác giả bài viết: Đỗ Trọng Hiền - Sưu tầm

Nguồn tin: Thư viện pháp luật